Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, việc giảm diện tích đất trồng lúa chủ yếu do thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng sang đất phi nông nghiệp để phát triển đô thị, khu dân cư mới.
Hiện Bộ Tài Nguyên và Môi trường đang lấy ý kiến Dự thảo báo cáo kế hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo Dự thảo này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đưa ra những dự báo về xu hướng biến động về đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng trên cả nước đến năm 2030.
Theo đó, việc giảm diện tích đất trồng lúa chủ yếu do thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng sang đất phi nông nghiệp (công trình công cộng, phát triển đô thị và các khu dân cư nông thôn hoặc đất sản xuất kinh doanh). Ngoài ra, ở nhiều địa phương còn do thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, nhiều diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả đã được chuyển đổi sang các loại đất nông nghiệp khác có giá trị kinh tế cao hơn…
Trên cơ sở đánh giá tiềm năng đất đai, dự thảo đã đưa ra dự báo xu thế biến động đất trồng lúa trong 10 năm tới có khả năng giảm khoảng 350- 400 nghìn ha, để chuyển mục đích sử dụng sang đất phi nông nghiệp dự tính khoảng 200- 250 nghìn ha, có thể thực hiện việc sử dụng linh hoạt quỹ đất lúa, chuyển sang trồng cây hàng năm khác, đất trồng cây lâu năm,… khoảng 150- 200 nghìn ha.
Đối với đất lâm nghiệp, trong giai đoạn 2021- 2030, mục tiêu phấn đấu đạt tỷ lệ che phủ rừng duy trì ở mức 42% năm 2025 và ổn định ở mức 43% vào năm 2030. Trong đó, diện tích trồng rừng sản xuất khoảng 340 nghìn ha/năm (chủ yếu là trồng tái canh); quản lý rừng bền vững đối với diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng hiện có; bảo tồn và bảo vệ rừng tự nhiên là rừng phòng hộ khu vực đầu nguồn, miền núi 3 triệu ha, rừng phòng hộ ven biển 0,3 triệu ha; trồng rừng phòng hộ, đặc dụng bình quân 4- 6 nghìn ha/năm; phục hồi rừng phòng hộ, đặc dụng bình quân 15 nghìn ha/năm,… Nguồn tăng cho đất lâm nghiệp chủ yếu được khai thác từ đất đồi núi chưa sử dụng (hiện vẫn còn 917,85 nghìn ha) và khu vực bãi bồi ven biển.
Diện tích nhóm đất phi nông nghiệp trên cả nước có mức tăng trưởng tương đối nhanh, liên tục và tuyến tính trong vòng một thập niên qua là phù hợp thực tế kinh tế xã hội Việt Nam đang ngày càng phát triển. Nguyên nhân là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu cầu dành một phần quỹ đất cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các khu công nghiệp và đô thị… ngày càng gia tăng mạnh.
Về xu hướng biến động một số loại đất phi nông nghiệp, dự thảo của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, với mục tiêu nâng tỷ trọng công nghiệp trong GDP vào năm 2030 đạt trên 40%, dự báo cả nước cần bố trí khoảng 200- 220 nghìn ha đất khu công nghiệp (bao gồm cả đất khu công nghiệp trong các khu kinh tế), tập trung chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm, tăng 115 nghìn ha so với năm 2020 (kể cả diện tích 95 khu công nghiệp nằm trong các khu kinh tế ven biển và các khu kinh tế cửa khẩu).
Đối với đất phát triển hạ tầng, dự báo năm 2030, đất phát triển hạ tầng cả nước tăng 400- 600 nghìn ha, tập trung nhiều cho các lĩnh vực phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội.
Riêng đất ở, trong những năm qua, quá trình đô thị hóa diễn ra tốc độ nhanh và phong trào xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh. Để đáp ứng nhu cầu nhà ở, diện tích đất ở trên địa bàn cả nước đã không ngừng được mở rộng, kể cả khu vực đô thị và nông thôn, đặc biệt là diện tích đất ở tại đô thị tăng nhanh.
Dự báo đến năm 2030, dân số Việt Nam có khoảng 104,3 triệu người, tỷ lệ dân số đô thị từ 53- 55% với 55,5 triệu người. Do đó, tổng diện tích đất ở sẽ tăng khoảng 150- 180 nghìn ha.